Văn hoá dân tộc Chu ru

Mê hoặc bởi nền văn hóa và đặc sản của dân tộc Churu tại Lâm Đồng. Đắm chìm vào nền văn hóa truyền thống của họ và tìm hiểu phong cách sống độc đáo.

Traditional Churu dance during the spring festival.
Người Churu là một trong những dân tộc thiểu số thuộc ngữ hệ Mã Lai - Đa đảo ở miền Nam, có dân số tương đối ít. Với khoảng 10.000 nhân khẩu, người Churu phân bố ở tỉnh Lâm Đồng, Ninh Thuận và Bình Thuận. Hãy cùng iGuide.ai tìm hiểu những thông tin về dân tộc Chu ru, Việt Nam nhé!

1. Nguồn gốc và dân số của người Churu

Ở Lâm Đồng, dân số Churu có khoảng 8.000 người cư trú, tập trung ở xã Tutra (huyện Đơn Dương), một số xã như Phú Hội, Xã Loan (huyện Đức Trọng) và một số ít sống rải rác ở một số xã, ấp thuộc huyện Di Linh. Ngoài ra còn có khoảng 2.000 người sống trong hai huyện An Sơn và Đức Linh thuộc tỉnh Thuận Hải xưa, nay là hai tỉnh Ninh Thuận và Bình thuận.

2. Ngôn ngữ của người Churu

Người Churu nói theo ngữ hệ Mã Lai - Đa đảo. Tuy nhiên, do cư trú lân cận với người Kơho, và giao lưu văn hóa từ lâu đời nên có một bộ phận người Churu nói tiếng Kơho thuộc ngữ hệ Môn-Khơme.

3. Quan hệ dân tộc và ngôn ngữ với người Chăm

Từ trước đến nay vẫn tồn tại vấn đề quan hệ giữa người Churu với người Chăm. Theo sự khảo sát thực tế của chúng tôi, thì từ thời rất xa xưa, người Churu và người Chăm rất có thể chung một nguồn gốc. Xét về mặt ngôn ngữ: tiếng Churu và tiếng Chăm đều thuộc ngữ hệ Mã Lai - Đa đảo. Nếu ta đem so sánh đối chiếu về mặt ngữ pháp, ngữ âm và những từ vựng cơ bản giữa hai ngôn ngữ đó có một mối quan hệ hết sức gần gũi. Về mặt nhân chủng, người Churu và người Chăm cùng có những đặc điểm nhân chủng giống nhau. Về mặt tín ngưỡng cổ truyền và văn học dân gian, chúng ta càng thấy được nhiều mối quan hệ thân thuộc.

4. Hoạt động kinh tế của người Churu

Do nguồn gốc lịch sử và địa bàn cư trú như vậy, người Churu là một dân tộc đã biết làm ruộng từ lâu đời và sống định canh định cư. Nghề trồng trọt chiếm vị trí hàng đầu trong đời sống kinh tế và lúa là nguồn lương thực chủ yếu; ngoài ra họ còn trồng thêm ngô, khoai, sắn và một số loại rau, đậu trên nương rẫy hoặc trong vườn. Vì vậy, trong ba loại hình trồng trọt chủ yếu thì quan trọng nhất là ruộng (hama), thứ đến là nương rẫy (apuh) và vườn (pơga).

Đồng bào thường làm những mương phai và các đê đập để dẫn nước từ các sông suối vào ruộng. Làm mương, phai, đê, đập thường phải huy động lực lượng của tất cả mọi người, nên mỗi một làng (plei) của người Churu thường có một người chuyên lo công việc dẫn nước vào ruộng gọi là trưởng thủy (pô Ea).

Ngoài nông nghiệp, đồng bào Churu còn chăn nuôi: trâu, bò, heo, dê, ngựa và các loại gia cầm khác như: gà, vịt, ngan, ngỗng... Trâu bò thường dùng làm sức kéo trong nông nghiệp; ngựa dùng để chuyên chở hàng hóa trao đổi với các dân tộc láng giềng. Trong các loại gia súc lớn, trâu được nuôi nhiều hơn bò và ngựa. Vì ngoài việc dùng làm sức kéo, trâu còn được dùng trong các lễ nghi nông nghiệp và tín ngưỡng cổ truyền, cưới xin hoặc dùng làm vật ngang giá để mua bán và trao đổi trong nội bộ dân tộc, cũng như với các dân tộc anh em khác.

Chưa tách khỏi nông nghiệp săn bắt, hái lượm, đánh cá, những sản phẩm thủ công chủ yếu như: đan lát đồ dùng gia đình bằng mây tre, và các công cụ tự rèn khác như liềm, cuốc, nạo cỏ đồ gốm phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và đời sống hàng ngày. Đặc biệt là nghề làm gốm, một nghề thủ công truyền thống của đồng bào Churu, ở những làng như Bkăn, Krang gõ, Krang chớ... là những làng nghề nổi tiếng về nghề làm gốm... Tuy nhiên, kỹ thuật chế tác hãy còn rất thô sơ. Tất cả mọi người đều có thể tham gia vào công việc làm gốm ở các khâu công việc như: đào đất, nhào đất v.v... riêng việc nặn gốm, nung gốm, sửa gốm...., và những khâu việc mang tính chất kỹ thuật khéo léo bằng chân tay khác là phần việc của người phụ nữ.

Nghề dệt ở đây hầu như không phát triển, vì vậy hầu hết các y phục cổ truyền của họ như: chăn, áo, khố, yêng v.v.... đều phải mua bán trao đổi với các dân tộc láng giềng như người Chăm, Kơho và người Mạ.

Nhìn chung, nền kinh tế cổ truyền của người Churu là một nền kinh tế tự nhiên, mang tính chất tự cấp, tự túc, bó hẹp trong từng gia đình, dòng họ và buôn làng. Trong các loại hình kinh tế đó, trồng trọt giữ một vai trò chủ đạo. Chăn nuôi chưa trở thành một nghề chính và chưa tách khỏi trồng trọt. Thủ công nghiệp vẫn là một nghề phụ trong các gia đình. Thực chất, đó vẫn là một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, kinh tế hàng hóa chưa phát triển.

5. Tổ chức xã hội của người Churu

Xã hội cổ truyền Churu dựa trên tổ chức plei (làng). Làng là một khoảng đất rộng độ vài ba cây số vuông gồm: thổ cư, đất đai trồng trọt, các công trình thủy lợi cùng với rừng núi sông suối và có ranh giới (nal) là các cột mốc tự nhiên như: con sông, ngọn suối hoặc quả đồi do các chủ làng (pô plơi) quy ước với nhau và cứ như thế được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Như vậy, thực chất ruộng đất đã thuộc quyền sở hữu của từng gia đình. Tuy nhiên, về mặt hình thức, quyền quản lý đất đai cổ truyền trong từng dòng họ vẫn thuộc về người tộc trưởng (ông cậu hoặc người chị cả). Mỗi gia đình nhỏ trước khi muốn chuyển nhượng hoặc mua bán đất đai đều phải thông qua ý kiến của người tộc trưởng và phải có những lý do chính đáng. Về mặt xã hội, làng Churu thường là một đại tông tộc hoặc là một đơn vị cư trú láng giềng. Một làng bao gồm nhiều dòng họ hoặc bao gồm cả những người khác tộc cùng cư trú. Ví dụ, làng Dom A có hai dòng họ là: Touneh và B'nahria; làng Dom B có 3 dòng họ: Đơlơng, K'bao B'nuh và D'nơng Sang, làng B'kău có 3 dòng họ: Crugiang, B'nahria và M'hỏi. Và trong cả ba làng nói trên đều có người Kơho, người Raglai cùng cư trú.

6. Gia đình Churu

Dưới làng, là những cộng đồng huyết thống như: đại gia đình, tiểu gia đình và dòng họ. Gia đình trong xã hội cổ truyền của người Churu là đại gia đình còn mang nhiều tàn dư của chế độ gia đình mẫu hệ. Điều đó biểu hiện tập trung nhất ở vai trò của người vợ, người cậu (miăh) và quyền thừa kế tài sản thuộc về những người con gái trong gia đình. Đại gia đình của người Churu thường có từ 3 đến 4 thế hệ con cháu của cùng một người mẹ và chồng con của họ cùng chung sống với nhau dưới một mái nhà dài (sang tơnuh prong). Tổ chức đại gia đình dựa trên cơ sở cộng đồng về kinh tế, xã hội và tư tưởng.

7. Hôn nhân của người Churu

Người Churu vốn cư trú trên một lãnh thổ tộc người tương đối thống nhất, nên từ trước tới nay thường có quan hệ hôn nhân trong nội bộ dân tộc. Tuy nhiên, họ vẫn có quan hệ hôn nhân với các dân tộc khác, nhất là người Kơho và người Raglai sống bên cạnh, có quá trình giao lưu kinh tế, văn hóa và xã hội lâu đời. Đặc biệt trong thời gian gần đây do chính sách dồn dân lập ấp chiến lược của Mỹ-ngụy đã đưa đến tình trạng cư trú xen kẽ, hỗn hợp giữa các dân tộc đó trong cùng làng, cùng ấp, cá biệt cũng có một số ít trường hợp hôn nhân với người Việt, thường là vợ Việt, chồng là Churu. Đó là những quan lại người Churu thời Pháp và các sĩ quan, công chức thời Mỹ-ngụy. Chế độ hôn nhân của người Churu là chế độ hôn nhân một vợ một chồng và cư trú bên vợ. Người phụ nữ đóng vai trò chủ động trong hôn nhân mà họ thường gọi là tục"bắt chồng".

8. Phong tục và tín ngưỡng của người Churu

Do trình độ phát triển kinh tế và khoa học kỹ thuật còn thấp, con người lệ thuộc quá nhiều vào thiên nhiên, đồng bào Churu còn bảo lưu nhiều phong tục tập quán lạc hậu. Một trong những phong tục đó là việc thờ cúng và tín ngưỡng đa thần. Việc thờ cúng tổ tiên ở đây bắt nguồn từ chỗ họ tín ngưỡng vào sự tồn tại vĩnh cửu của linh hồn của những người đã khuất.

Lễ thờ cúng tổ tiên (Pơkhimôcay) ở đây khác hẳn với lễ thờ cúng tổ tiên của người Việt. Việc hành lễ không có một trật tự ngày tháng nào nhất định. Có thể hai ba năm hoặc hai, ba mươi năm mới cúng một lần, tùy theo hoàn cảnh kinh tế của mỗi gia đình, dòng họ. Trong nhà của người Churu cũng không có bàn thờ hay bài vị dành cho những người đã khuất. Họ chỉ làm bàn thờ và tiến hành việc thờ cúng vào một dịp nào đó ở ngoài nghĩa địa (kốtatâu) chứ không đem về nhà. Thường ngày, mỗi khi có người chết họ thường ngả trâu, bò để làm lễ cúng.

Đó là một phong tục có từ lâu đời mà hiện nay còn ảnh hưởng rất sâu đậm trong đời sống tinh thần của người Churu. Cho tới khi có sự xâm nhập của các tôn giáo như Thiên Chúa giáo và đạo Tin Lành, những tín đồ các tôn giáo ấy vẫn tiến hành thờ cúng tổ tiên của mình song song với sự tôn thờ đức Chúa.

9. Văn học nghệ thuật dân gian của người Churu

Người Churu có một vốn ca dao, tục ngữ phong phú. Phần lớn vốn tục ngữ dân ca đều phản ánh chế độ mẫu hệ, đề cao vai trò của người phụ nữ trong gia đình và trong xã hội cổ truyền của họ.

10. Âm nhạc và nhạc cụ truyền thống

Về âm nhạc, ngoài trống (sơ gơn), kèn (rơkel), đồng la (sar) v.v... còn có r'tông, kwao, terlia là những nhạc cụ đặc sắc của người Churu. Trong những ngày vui, họ thường tấu nhạc với điệu Tam-ga, một điệu vũ mang tính cộng đồng rất điêu luyện, mà hầu như người nào cũng biết và ưa thích.

11. Đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc

Đồng bào Churu cũng như các dân tộc ít người ở Tây Nguyên đã góp phần công sức của mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Dưới chế độ thực dân phong kiến, đồng bào bị kìm hãm về nhiều mặt, bị áp bức và bóc lột nặng nề, nhất là bị khinh rẻ và miệt thị. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đồng bào Churu mới thực sự được đổi đời. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng bào Churu đã và đang sát cánh với các dân tộc anh em khác trong cả nước ra sức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng một cuộc sống ấm no và hạnh phúc.

Trên đây là một số những thông tin thú vị về dân tộc Churu, Việt Nam, hãy cùng iGuide.ai lên kế hoạch khảo sát, đối thoại và hòa nhập với văn hoá độc đáo của người Churu trong thời gian tới nhé!

Nguồn:
- Các dân tộc ở Việt Nam (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật)
- Đặc trưng cơ bản của 54 dân tộc thiểu số năm 2019 (Ủy ban Dân tộc và Tổng cục Thống kê)
- Website Ủy ban Dân tộc, Website Báo Nhân Dân, Website báo Lâm Đồng
- Kết quả điều tra thu thập thông tin về tình trạng kinh tế xã hội của 54 dân tộc Việt Nam)


iGuide khách du lịch
Chia sẻ trang này
Bạn có thể cũng thích

Những cụm từ tiếng Việt cần thiết cho khách du lịch: Hướng dẫn giao tiếp ở Việt Nam

Bởi Admin

04/10/2024

Bắt đầu cuộc phiêu lưu ở Việt Nam của bạn một cách tự tin bằng cách nắm vững các cụm từ chính sẽ nâng cao trải nghiệm du lịch của bạn. Mặc dù không yêu cầu phải lưu loát, nhưng việc biết các cách diễn đạt cần thiết có thể cải thiện sự an toàn và tương tác của bạn với người dân địa phương, tạo ra mối liên hệ sâu sắc hơn với nền văn hóa phong phú của Việt Nam. Từ lời chào cơ bản đến chỉ đường, những cụm từ này sẽ giúp bạn giao tiếp hiệu quả và thể hiện sự tôn trọng đối với phong tục địa phương. Hãy tận dụng cơ hội để làm phong phú thêm chuyến đi của bạn bằng cách tham gia vào ngôn ngữ và truyền thống sôi động của Việt Nam.

Đọc thêm

Mẹo an toàn thực phẩm và nước uống thiết yếu cho du khách ở Việt Nam

Bởi Duc Anh

04/10/2024

Hành trình ẩm thực

Khám phá những mẹo quan trọng về an toàn thực phẩm và nước để nâng cao trải nghiệm du lịch của bạn tại Việt Nam. Tìm hiểu cách chọn lựa các lựa chọn ăn uống an toàn, xử lý sản phẩm tươi sống và điều hướng an toàn nước để có một chuyến đi không phải lo lắng.

Đọc thêm

Các cách ngăn ngừa ve rận

Bởi Duc Anh

04/10/2024

Tìm hiểu các phương pháp hiệu quả để giảm thiểu tiếp xúc với ve và bảo vệ chống lại các bệnh do ve truyền. Khám phá cách ngăn ngừa ve cắn trước và sau các hoạt động ngoài trời và triển khai các kỹ thuật cảnh quan để tạo ra môi trường an toàn cho ve xung quanh nhà bạn. Hãy luôn cập nhật thông tin và an toàn trong những tháng cao điểm hoạt động của ve.

Đọc thêm

Hướng dẫn toàn diện về phòng ngừa vết cắn của ve và bệnh Lyme

Bởi Admin

04/10/2024

Khám phá các cách thức hiệu quả để ngăn ngừa vết cắn của ve và bệnh Lyme với hướng dẫn toàn diện của chúng tôi. Tìm hiểu về các hành vi bảo vệ cá nhân, tầm quan trọng của việc kiểm tra ve thường xuyên và cách sử dụng thuốc xua đuổi ve hiệu quả. Khám phá những hiểu biết sâu sắc về hành vi của ve, các biện pháp tốt nhất để loại bỏ ve và các lựa chọn thuốc xua đuổi an toàn để bảo vệ tối đa trong các hoạt động ngoài trời

Đọc thêm